Chủ Nhật, 3 tháng 4, 2011

[Kinh nghiệm] Làm ở Viettel - Hãy nói theo cách của bạn





Để xem các vị trí đang tuyển dụng của Viettel, truy cập vào 2 địa chỉ sau:






Cách tính lương ở Viettel như sau:


Với người đã có bằng đại học, mới vào Viettel thì có hệ số lương 3.6 (riêng Trung tâm phần mềm là 3.9)
Mỗi hệ số lương tương đương 1tr VNĐ
Với khu vực các thành phố lớn thì được thêm 40% lương (hoặc là nhân số trên với 1,4)
==> Mỗi tháng lương mà các bác lãnh đạo tập đoàn nói tương đương với 5tr040k

Mỗi tháng được 550k tiền ăn trưa + 200k tiền điện thoại (tùy đơn vị) và lương SXKD được 70% lương chính. Sau khi trừ đi BHXH, BHYT, thuế TNCN, công đoàn, đóng góp linh tinh
==> Tổng số 1 tháng về tài khoản được 9tr

Mỗi quý trung bình được thưởng thêm 2tháng lương cơ bản (1 năm được +40tr)
Tết được
+3.5 tháng lương cơ bản,
+tiền lương thâm niên (+1tr/1 năm làm việc) + lương lung tung (1 năm được +25tr) (cái này áp dụng với quân nhân)
==> Thu nhập cả năm ở Viettel là 173tr ==> Bình quân tháng là 14tr4


Mức lương này khá cao so với SV mới ra trường. Nhưng những người làm trên 3 năm thì mức lương này là bình thường.

Nếu không phải COCC, không có trình độ thuộc loại giỏi xuất sắc, không biết nịnh nọt thì sau 2-3 năm mới được lên lương 1 lần. Mỗi lần lên được khoảng 8% (hệ số cơ bản từ 3.6 thành 3.9 rồi lên tiếp 4.2) ==> Sau 6 năm làm việc 12h/ngày, làm việc 6.5 ngày/tuần thì bạn được thu nhập là 16.8tr/tháng ==> Quá ít cho sự cống hiến.

Ngoài cái này ra thì còn vụ tính performance (còn gọi là Ki) A (+5% lương), B (+2% lương), C (không được cộng gì), D (-10% lương). Công ty nào mà trưởng phòng không biết nhân viên làm việc thế nào thì cứ thay nhau nhận D.
--> Cái này là cái để thu nhập hàng tháng giảm dần đều :D


Tóm lại: màu + màu = tổng lương một tháng. Làm ở Viettel công sức bỏ ra là không nhỏ, do đó nên cân nhắc giữa tiền bạc và sức khỏe :D



(Sưu tầm) - Thông tin trên chỉ mang tính tham khảo. Không đúng tất cả cho những trường hợp riêng lẻ.

[Hỗ trợ - Cách làm việc] Mô hình Waterfall

Năm 1970, mô hình nổi tiếng và được áp dụng trong qui trình phát triển phần mềm tại phần lớn các công ty hiện nay ra đời: mô hình thác nuớc (Waterfall model). Mô hình này là kết quả của sự kết hợp các mô hình sản xuất từ các ngành kỹ thuật khác áp dụng cho công nghệ phần mềm. Mô hình Waterfall là một chuỗi qui trình phát triển như một luồng đều đặn từ trên xuống giống như một thác nước, bao gồm các giai đoạn: phân tích yêu cầu khách hàng, thiết kế, cài đặt, kiểm tra, tích hợp và bảo trì. Bạn sẽ thấy mô hình này giống hệt với qui trình xây một căn nhà: kiến trúc sư tìm hiểu yêu cầu của chủ nhà, thiết kế căn nhà, đưa cho đội ngũ thi công thực hiện, kiểm tra chất lượng và cuối cùng trao chìa khóa cho người sở hữu.

Sự phát triển như một luồng đều đặn từ trên xuống giống như một thác nước.





Mô hình này bao gồm các giai đoạn xử lý nối tiếp nhau như sau:


Phân tích yêu cầu và tài liệu đặc tả (Requirements and Specifications): là giai đoạn xác định những “đòi hỏi” (“What”) liên quan đến chức năng và phi chức năng mà hệ thống phần mềm cần có. Giai đoạn này cần sự tham gia tích cực của khách hàng và kết thúc bằng một tài liệu được gọi là “Bản đặc tả yêu cầu phần mềm” hay SRS (software requirement specification), trong đó bao gồm tập hợp các yêu cầu đã được duyệt (reviewed) và nghiệm thu (approved) bởi những người có trách nhiệm đối với dự án (từ phía khách hàng). SRS chính là nền tảng cho các hoạt động tiếp theo cho đến cuối dự án.

Phân tích hệ thống và thiết kế (System Analysis and Design): là giai đoạn định ra “làm thế nào” (“How”) để hệ thống phần mềm đáp ứng những “đòi hỏi” (“What”) mà khách hàng yêu cầu trong SRS. Đây là chính là cầu nối giữa “đòi hỏi” (“What”) và mã (Code) được hiện thực để đáp ứng yêu cầu đó.

Hiện thực và kiểm thử từng thành phần (Coding and Unit Test): là giai đoạn hiện thực “làm thế nào” (“How”) được chỉ ra trong giai đoạn “Phân tích hệ thống và thiết kế”.

Kiểm thử (Test): giai đoạn này sẽ tiến hành kiểm thử mã (code) đã được hiện thực, bao gồm kiểm thử tích hợp cho nhóm các thành phần và kiểm thử toàn hệ thống (system test). Một khâu kiểm thử cuối cùng thường được thực hiện là nghiệm thu (acceptance test), với sự tham gia của khách hàng trong vai trò chính để xác định hệ thống phần mềm có đáp ứng yêu cầu của họ hay không.

Cài đặt và bảo trì (Deployment and Maintenance): đây là giai đoạn cài đặt, cấu hình và huấn luyện khách hàng. Giai đoạn này sửa chữa những lỗi của phần mềm (nếu có) và phát triển những thay đổi mới được khách hàng yêu cầu (như sửa đổi, thêm hay bớt chức năng/đặc điểm của hệ thống).

Thực tế cho thấy đến những giai đoạn sau mới có khả năng nhận ra sai sót trong những giai đoạn trước và phải quay lại để sửa chữa. Đây chính là kiểu waterfall dạng lặp (Iterative Waterfall) và được minh hoạ trong hình sau:







Mô hình này đã được sử dụng rộng rãi trong những dự án phát triển phần mềm lớn của bộ Quốc Phòng Mỹ và NASA, và trong rất nhiều dự án lớn khác của chính phủ. Những cơ quan sử dụng mô hình này không phải lúc nào cũng phân biệt được mô hình Waterfall nguyên bản và các mô hình Waterfall đã được sửa đổi vì thế thật khó để xác định chính xác mô hình nào được sử dụng và những gì được mở rộng.

Người ta đã nhận ra rằng một lỗi được phát hiện ở các giai đoạn ban đầu trong quá trình phát triển phần mềm như là đặc tả yêu cầu và thiết kế thì tốn ít tiền, công sức và thời gian để sửa lỗi hơn là cùng lỗi đó những được phát hiện muộn hơn. McConnell (1996) đánh giá rằng một sai sót trong đặt tả nếu không được phát hiện cho đến khi cài đặt hoặc bảo trì sẽ tốn từ 50 đến 200 lần giá thành để khắc phục hơn là khi khắc phục nó từ giai đoạn đặc tả. Do đó, đối với mô hình Waterfall, đầu tiên phải chắc rằng đặc tả và thiết kế hoàn toàn đúng sẽ giúp tiết kiệm thời gian và công sức sau này. Và trong mô hình này, mỗi pha phải được chăc chắn rằng đã hoàn thành 100% và hoàn tòan đúng trước khi tiếp tục chuỷển sang pha tiếp theo của quá trình.

Nhiều năm qua đi, người ta ngày càng học hỏi được nhiều hơn về cách tốt nhất để làm một phần mềm và cũng bắt đầu nhận thức được rằng mô hình thác nước là quá cứng nhắc và thiếu thực tế. Không giống như việc bạn xây một căn nhà, ngay khi thiết kế, người ta đã dự kiến được 99% hình thù và chi tiết căn nhà sẽ như thế nào. Một dự án phần mềm hiếm khi được hình dung một cách chi tiết và đúng theo yêu cầu công việc. Chỉ khi đưa vào thử nghiệm trong môi trường thực các vấn đề mới bắt đầu phát sinh và việc thay đổi yêu cầu diễn ra thường xuyên.

Những người “ngoại đạo” thường nghĩ rằng vì phần mềm là “mềm” nên có thể dễ dàng thay đổi chỉnh sửa tùy hứng. Nhưng thực ra phầm mềm cũng giống như bất kỳ một cơ cấu kỹ thuật nào khác (như máy móc cơ khí chẳng hạn), nó cũng có thiết kế và cấu trúc (mà thường lại còn phức tạp hơn các máy móc cơ khí rất nhiều).

Khi yêu cầu công việc thay đổi, việc thay đổi trong phần mềm là tất yếu và trong thế kỷ 21 này các thay đổi lại càng diễn ra thường xuyên và nhanh chóng. Với mô hình Waterfall, việc theo kịp các thay đổi là không thể thực hiện vì vòng qui trình của nó quá dài. Nó giống như việc cứ mỗi lần có bất kỳ thay đổi nào là bạn phải gần như phải phá căn nhà đi và xây lại từ đầu. Bạn có thể hình dung ra được sự tốn kém và bất tiện sẽ lớn như thế nào.

Năm năm sau, Frederick Brooks phát hiện ra lỗ hổng lớn đầu tiên của mô hình này trong cuốn sách kinh điển về quản trị dự án: The Mythical Man-Month (Bí mật về tháng nhân công). Chắc các bạn làm phần mềm đều biết khái niệm man-month (hay man-day) là thước đo căn bản để tính giá cho việc phát triển phần mềm: đó là công lao động trong một tháng (hay một ngày) của một lập trình viên. Phát hiện nổi tiếng nhất của Brooks là “trong phát triển phần mềm không phải cứ thêm nhân công thì dự án sẽ nhanh hơn theo cùng cấp số“. Vấn đề là do sự mất cân đối trong giao tiếp khi số lượng người tham gia tăng lên.

Thật khó có thể xác định hết các yêu cầu từ thời điểm ban đầu của một dự án phần mềm. Khách hàng chỉ làm việc với nhóm phát triển trong pha phân tích ban đầu. Khách hàng không thể có một nhận thức chính xác về những gì họ yêu cầu trước khi họ có thể nhìn thấy mô hình họat động. Họ có thể thay đổi yểu cầu bất cứ lúc nào mà người thiết kế và cài đặt không thể kiểm soát. Nếu khách hàng thay đổi yêu cầu của họ sau khi pha thiết kế đã kết thúc, thì thiết kế sẽ phải được thay đổi để thích hợp với những yêu cầu mới. Và người thiết kế cũng có thể không thầy hết được những khó khăn trong cài đặt ở tương lai khi thiết kế một sản phần phần mềm không có khả năng cài đặt. Trong trường hợp này tốt hơn là thiết kế lại phần mềm hơn là sửa chữa thiết kế cũ.

Việc thay đổi là có thể xuất hiện bất cứ lúc nào trong cả quá trình của dự án, và người ta không thể biết chắc rằng cần phải tốn bao nhiêu thời gian và công sức cho mỗi pha để đảm bảo rằng tất cả đã thỏa mãn yêu cầu của người dùng, và thật khó để đánh giá một cách chính xác thời gian, giá thành của dự án ngay từ hợp đồng ban đầu.

Tóm lại, hai vấn đề lớn nhất của mô hình thác nước là:

1. Mô hình này quá tự tin với giả định rằng chúng ta luôn có thể làm được một hệ thống hoàn hảo ngày lần đầu.

2. Phần mềm ngày càng khác với các cơ cấu kỹ thuật cứng nhắc mà giống như các cơ thể sống - nó phải tiến hóa để thích hợp với môi trường. Đây chính là tiền đề cho một phương thức phát triển mới chiếm lĩnh ưu thế trong những năm gần đây: phương thức phát triển linh hoạt ( Agile Development Methods )

Thứ Bảy, 2 tháng 4, 2011

[Kinh nghiệm] Tham gia Testing training tại LogiGear




Mỗi tháng LogiGear sẽ tuyển khoảng 10 người để tham gia khóa đào tạo miễn phí 1 tháng về test training. Thông tin xem thêm có thể được xem tại đây. Mình post bài này để chia sẻ chút kinh nghiệm (mà không biết có ai coi không nữa :D)

Ngoài ra, có 1 điều mà website không nói tới, đó là để tham gia 1 tháng training, thì bạn phải đồng ý ký hợp đồng gồm 2 tháng thử việc, và 6 tháng làm việc chính thức sau khi tham gia training, nếu không bạn sẽ phải trả toàn bộ chi phí (là 4 triệu 8). Nghĩa là bạn phải có 9 tháng rảnh tuyệt đối để đi làm ngày 8 tiếng. Logigear khuyến khích sinh viên đã tốt nghiệp nộp đơn hơn là sinh viên đang đi học.

Đầu tiên thì cứ gửi CV online. À, mặc dù Logigear có mẫu CV sẵn, nhưng mà nó xấu lắm. Mình xài template này cho CV.

Phòng nhân sự ở Logigear làm việc rất là nhanh chóng, họ sẽ gọi bạn sớm thôi (trong trường hợp của mình là 2 ngày). Sau đó sẽ đến vòng kiểm tra tiếng Anh + critical thinking

Vòng 1

Nếu bạn mong chờ câu hỏi dễ thì không phải vậy đâu nha. Theo ý kiến bản thân mình thì Logigear test “ra trò” luôn đấy.

20’ cho 20 câu hỏi critical thinking.

Nghe: bài nghe dài khoảng 7’, bài nói chậm, và được nghe tới 2 lần nên cũng không khó lắm. Nhưng có điều là các câu hỏi sắp xếp không theo thứ tự bài nghe, bạn nên nhìn lướt qua một lượt các câu hỏi để biết sơ lược nội dung.

Nói: có 2 thầy giáo tiếng Anh người nước ngoài hỏi mình 1 câu hỏi, đó là “why do you want to work at Logigear?”

Đọc: trong phần này cũng có xen lẫn critical thinking nữa.

Viết: 25’ để viết essay, tối thiểu 120 chữ, hôm mình thi thì có 2 đề: (i) 1 công việc lương cao nhưng làm nhiều thời gian, và 1 công việc lương thấp hơn, nhưng có nhiều thời gian dành cho gia đình và bạn bè, bạn sẽ chọn cái nào, (ii) phát minh nào trong vòng 100 năm trở lại đây theo bạn là có ảnh hưởng to lớn đến đất nước. Bạn nên sắp xếp thời gian viết essay, viết chút ít cũng được, nhưng đừng để trống.

Kiểm tra kiến thức về máy tính chung chung. Câu hỏi theo dạng liệt kê, từ 3-5 cái gì đó tùy câu. (i) OS system, (ii) type of programming languages, (iii) versions of Windows OS, (iv) mình quên rồi ;)


Vòng 2


Interview bằng tiếng Anh.

Mặc dù hẹn bạn 9h30, nhưng nếu bạn đến lúc 9h5 thì bạn cũng có thể được mời lên phỏng vấn liền, không có thời gian để thở đâu :D

Mình thì do đang là sinh viên, hoàn toàn không thể theo nổi cái hợp đồng 9 tháng của họ, nên họ cũng không phỏng vấn mình. Mình thấy Logigear muốn tuyển những người thể hiện cam kết sẽ làm việc lâu dài với họ.

o0o

Good luck

(Lấy từ http://quynhxq.blogspot.com/)

 



Xem thêm: Cơ hội nghề nghiệp tại LogiGear

[Kinh nghiệm] Tâm sự của một Tester sau hơn 365 ngày trong biển Test mênh mông





Cá con ra biển lớn



"Woa! lớn quá" suy nghĩ ấy xẹt qua trong đầu khi tôi tìm ra công ty Logigear. Lẹ làng bước vào trước khi chút can đảm nhỏ nhoi bị sự hồi hộp nuốt chửng. Từ hồi hôm qua, sau khi nhận được điện thoại mời phỏng vấn, cảm giác vừa mừng vừa lo cứ chực chờ phóng vào ngồi chễm chệ trong cái đầu trống rỗng của tôi. Lấy hết tất cả bài vở đã học về testing cũng như những tư liệu về công ty, tôi ngâm cứu chậm chạp. Giờ đứng ngay trong phòng test, tôi nghe mọi kiến thức đang lục đục dọn dẹp để rời khỏi đầu mình, chỉ còn tiếng tim đập nghe sao mà rõ mồn một. Hoàn tất phần viết, nghe, nói, tôi thấy lòng nhẹ đi một chút, phấn khởi chạy xe về mà mãi nghĩ về những về câu hỏi và phần trả lời, "mình cố hết sức rồi" vang lên trong đầu an ủi tôi được chút đỉnh.Hai ngày hòan tất phần phỏng vấn đánh dấu bước ngoặt to đùng là ngày tôi vào công ty "bự" này. Nhớ lại lòng vui khôn xiết khi báo cho má biết là con tìm được chỗ train để đi làm tester rồi. Thấy má mừng mà tôi cũng rưng rưng.


Bước qua phần training bốn tuần, điều mà tôi cảm nhận rõ rệt nhất là cảm giác vui ít lo nhiều, khó mà có giấy bút nào miêu tả nổi, cho đến bây giờ mỗi sáng đi qua, thấy bóng trainee ngồi trong phòng wall-e là nhịp chân tôi như chậm lại, cảm giác ngày trước lại ùa về như được thấy lại chính mình trong một thước phim quay chậm. Nhưng còn một điều mạnh mẽ hơn nữa mà tôi không bao giờ quên được, như chiếc quạt "ba tiêu" thổi bay sự lo lắng, bất an đó là sự nhiệt tâm của các anh chị trainer qua từng bài giảng, sửa cho chúng tôi những lỗi ngây ngô nhất khi lần đầu viết test requirement, chỉ cho chúng tôi biết quý trọng, nắn nót từng con bug bắt được. Tôi còn nhớ "cô giáo chủ nhiệm" lớp training hồi đó là chị Kim, dù biết chị là sếp lớn trong công ty nhưng vì tại chưa hình dung là lớn cỡ nào nên bọn tôi cứ vui tươi cười nói hết cỡ với chị, giờ nghĩ lại thấy mình sao "hồn nhiên quá". Rồi lần đầu làm quen với TA, trầy trật bắt interface sao control cứ chạy lòng vòng, cố lắm mới làm được Test Module, nhìn nó chạy ro ro, pass xanh xanh, tôi thấy niềm vui như mạch nước ngầm len lỏi trong tim mình.


Bốn tuần trôi qua thật là nhanh, bao kiến thức mới được tôi hấp thụ nhiệt tình, thấy Logigear quen quen được một chút, cơm căn tin ăn đã giáp vòng, món nào cũng thử qua sao thấy ngon hết sức (chắc tại tôi thuộc tuýp dễ nuôi). Ngày cuối được nhận vào làm tuy là ở những team khác nhau nhưng tôi và những bạn chung lớp vẫn kịp nhìn trong mắt nhau những niềm vui mừng phấn khởi mà chẳng cần chi phải nói ra. Vậy là có việc làm rồi, làm trong công ty "bự" nữa nha. Một cảm giác ấm áp chở che bao lấy tôi như con thuyền đã tìm được bến đỗ an tòan sau mấy ngày vật lộn với bão tố. Tựa hồ như cơn mưa rào thắm đẵm con sông lâu ngày đã cạn khô.



Cá con gặp sóng lớn





Hai tháng thử việc bắt đầu, tôi thực tập ở team Leapfrog, làm quen với mấy câu “kinh điển” như ”sysaid IT”, “feel free to contact with me”. Mới đầu còn thấy xa cách với mọi người, thấy mình như vô hình, lọt thỏm trong không khí làm việc tất bật của team, nhưng sau quen dần, thấy ai cũng vui, đối xử với nhau bằng thứ tình cảm lóng lánh chan chứa yêu thương mà tôi ngỡ không bao giờ thấy lại từ khi kết thúc đời sinh viên. Rồi những cái đầu tiên đến như OT nè, chat với client nè, nói chuyện với sếp nè. Sếp ở Logigear không giống với những gì tôi tưởng anh chị nào cũng dễ thương, dễ gần và ăn mặc rất là thời trang (hì hì). Tình cảm của tôi và team ngày một lớn lên qua những lần OT, qua ổ bánh mì chia đôi và nhiều thứ khác nữa. Rồi điều mà tôi sợ nhất cũng đã đến “chuyển team”. Lead thông báo nghe nhẹ tênh, còn tôi thì
lòng sao nặng trĩu. Một cảm giác chới với ập đến. Tôi tự hỏi không biết có ai cảm giác như tôi không. Rồi đây sẽ mất bao lâu để tôi chấp nhận điều này như một phần của công việc?
Túi xách trong tay, kỷ niệm trong tim, tôi đơn độc bắt đầu cuộc hành trình khó khăn và tưởng chừng như bất tận, tôi chuyển team liên tục, mỗi team học được thêm nhiều điều mới, chỉ tiếc là không được ở lâu, team nào cũng vui, để lại trong tôi nhiều điều khó quên làm cho mỗi cuộc chia tay càng thêm khó khăn. Việc chuyển qua làm trainee cho Halibutton làm cho cuộc hành trình như tạm dừng lại. Sau một tháng tôi được làm cho một dự án mới, khi thấy tên mình kế bên chữ “billable” trong moving request, niềm vui trong tôi chợt vỡ òa như tìm lại được điều gì quý giá mà mình đánh mất từ lâu, tôi dành chút thời gian ngắm nhìn tên mình và chữ “billable” ý nghĩa. Cuối cùng tôi cũng được là một phần gì đó cố định trong team, thấy mình có ích, cố gắng được thừa nhận. Dẫu biết cái gì cũng có kết thúc, rồi tôi cũng phải chia tay những
chiếc giếng khoan của Hali như đã từng chia tay những ngày thu ngồi chơi game ở team Leapfrog, ad-hoc cả ngày với PRM, rồi cùng share video với PD, hàng giờ bổ sung kiến thức trên Kaplan web và những chiếc xe của Snap-on, nhưng đó là chuyện tương lai, ngay bây giờ tôi chỉ biết cố gắng để làm tốt nhiệm vụ được giao và đi tiếp trên con đường mình đã chọn.

Trưởng thành chưa con cá?



Cuộc sống luôn chứa đựng nhiều thử thách




Đã hơn một năm từ cái ngày "Woa! lớn quá". Cảm ơn Logigear vì đã cho tôi cơ hội để bắt đầu những trải nghiệm tuyệt vời nhất. Tôi muốn gửi đến cho những bạn trainee một lời nhắn là "Hãy cố gắng và tự tin, khó khăn ban đầu sẽ mở ra những thành công đầu tiên."



Tôi là một tester.
Auto và manual.
Tôi đều mong làm được.
Auto quả là khó.
Manual chẳng dễ đâu.
TA tuy khó tính.
Nhưng cũng thật là cool.
Lúc bắt interface.
Lúc create action.
Pass vui, fail sợ.
Lại phải debug thôi.
Module chạy ro ro.
Lòng vui mừng hớn hở.
Cám ơn TA lắm.
Vì cho tôi nhiều điều.



Hong Mai Nguyen (From LogiGear Community)

[Hỗ trợ - Cách làm việc] Scrum Cheat Sheet

Nhấn vào hình để download bảng Scrum Cheat Sheet.





Được biên soạn bởi

Mẫu CV (Curriculum Vitae) (Cập nhật ngày: 02/04/2011)



Bên dưới là một số mẫu CV để các bạn có thể tham khảo. Các bạn cũng có thể dùng chính các mẫu này để nộp đơn cho NetPower. Lưu ý: Các bạn nên gởi mình file .doc hay .docx để mình có thể chỉnh sửa cho thuận tiện, sau đó mình sẽ chuyển thành file .pdf để nộp cho các bạn.
     
  1. Download Sample CV 1



  2. Download Sample CV 2

  3. Download Sample CV 3

  4. CV Mẫu Bằng Tiếng Anh (Hạng 3 Cuộc Thi "Hồ Sơ Ấn Tượng Cùng Bạn Tỏa Sáng" Năm 2011)

  5. Mẫu CV cho Computer Science

[Kinh nghiệm] 10 mẹo nhỏ để các lập trình viên có một bản lý lịch thành công




Chắc hẳn những ai đã từng kiếm việc làm đều biết bước đầu tiên của chặng đường đi tìm công việc đó là viết một bản sơ yếu lý lịch đem đến cho bạn cơ hội tham gia phỏng vấn. Không may, những bản sơ yếu lý lịch truyền thống có nhiều quy tắc chưa phù hợp trong lĩnh vực phát triển phần mềm. Sau đây là 10 mẹo nhỏ để viết bản lý lịch cho một lập trình viên sẽ giúp bạn tăng cơ hội tham gia vòng phỏng vấn.


1. Cung cấp một danh sách các kỹ năng


Nhà tuyển dụng muốn biết rằng liệu bạn có đáp ứng được những kỹ năng mà công ty đang cần tuyển. Phần "Kinh nghiệm" giúp nhà tuyển dụng có một ý tưởng tốt về những kinh nghiệm bạn có, nhưng nếu thêm mục "Kỹ năng" trên đầu bản lý lịch thì sẽ gây được sự chú ý đầu tiên. Chắc chắn rằng bạn đang làm cho nhà tuyển dụng dễ dàng hơn khi duyệt qua lý lịch của bạn. Nhưng xem xét theo khía cạnh khác thì bạn có thể hướng sự chú ý của họ tới các kỹ năng nào đó mà họ không chú ý tới. Ít ra thì nhà tuyển dụng sẽ đánh giá qua danh sách các kỹ năng bạn có.


2. Tạo kinh nghiệm thú vị


Đa số các ứng viên đều viết đã từng lập trình một trang web hay một ứng dụng trên máy tính. Thêm một loạt các ví dụ kiểu đó vào trong bản sơ yếu lý lịch sẽ không gây ấn tượng. Điều gây ấn tượng đối với nhà tuyển dụng là kinh nghiệm nổi trội nhất trong các dự án đó, hãy chứng minh rằng bạn đã làm nhiều hơn là chỉ ở mức độ “Hello World". Nếu bạn đã làm việc dưới những sự ràng buộc duy nhất hay tại những môi trường giao dịch mức cao hoặc đã từng thất bại, tất cả những điều này đều gây thiện cảm tốt tới người duyệt lý lịch của bạn. Vì thế hãy cho tôi thấy kinh nghiệm của bạn khác như thế nào, và tôi cũng sẽ nhìn nhận bạn khác những ứng cử viên khác.


3. Tránh các lỗi ngữ pháp, lỗi chính tả và những sai sót cơ bản khác


Qua quá trình tuyển dụng, tôi đã gặp rất nhiều bản sơ yếu lý lịch bị mắc lỗi ngữ pháp và lỗi chính tả. Một trong số những lỗi không nên có nhất là người nào đó đã đánh vần sai tên trường cao đẳng nơi anh ta tốt nghiệp. Bản sơ yếu lý lịch tuân theo những văn phạm ngữ pháp nhất định, và công việc phát triển phần mềm nói riêng thường quay tròn xung quanh những từ viết tắt hay được đánh vần kỳ quặc. Việc viết sai ngữ pháp là không thể bỏ qua được. Hãy kiểm tra chính tả và ngữ pháp cho bản lý lịch của bạn. Mẹo này luôn xuất hiện trong các bài báo đưa ra lời khuyên khi viết lý lịch mà tôi đã đọc, nhưng nó rõ ràng là nó vẫn rất cần được lặp lại.


4. Bằng cấp trở nên không thực tế


Trừ phi bạn đang gia nhập thị trường việc làm để tìm việc lập trình hay ứng tuyển vào những vị trí chuyên dụng, còn nếu không thì bằng cấp của bạn không phải là vấn đề quan trọng. Chắc chắn, bạn cần thêm nó vào trong bản lý lịch nhưng liệt kê ở cuối. Những nhà tuyển dụng nếu cần hay muốn biết thì có thể tìm thấy nó, và những người khác sẽ không phải tiêu phí thời gian vì nó. Thế giới lập trình thường xuyên thay đổi do đó trong 7 năm gần đây đa số các trường học (ngoại trừ các môn "nguyên lý và lý thuyết", như toán học hay khoa học máy tính) và chứng chỉ hay bằng cấp không còn là vấn đề thiết yếu trong thực tế thế giới việc làm hiện nay.


5. Tập trung, ngắn gọn


Khuôn mẫu các bản sơ yếu lý lịch truyền thống bao gồm rất nhiều thông tin không cần thiết, không nằm trong những mối quan tâm của nhà tuyển dụng. Phần Tóm lược và mục tiêu là hai mục như vậy. Thật sự không có cách để qui định một tóm lược miêu tả đa số lập trình chuyên nghiệp một cách chính xác. Đây là lý do mà hầu như mục này được điền những dòng ngớ ngẩn như là: "lập trình viên với 10 năm phát triển" sau những điểm nhấn ở mục kỹ năng. Mục tiêu thường xuyên (nhưng không phải luôn luôn) không được quan tâm. Lập trình viên cấp trung bình muốn vào trong một vị trí cao hơn có thể an toàn bỏ qua mục tiêu. Lập trình viên bậc chuyên nghiệp muốn trở thành kiến trúc sư phần mềm hay một DBA thì cần đưa ra một mục tiêu. Vì thế để tránh tóm lược, hãy chỉ cung cấp những mục tiêu hữu ích, và để cho nhà tuyển dụng nắm được kỹ năng của bạn càng nhanh càng tốt.


6. Những vấn đề định dạng


Định dạng của bản sơ yếu lý lịch rất quan trọng. Khi mà ngày nay những bản lý lịch được gửi qua thư điện tử, thì vẫn cần những tài liệu để đọc trên màn hình máy tính và cả những bản in trên giấy. Đây là thời gian để tăng cường khả năng đọc. Sử dụng phông chữ lớn (10 tới 12 px) và là phông chuẩn trên máy tính, phải tạo ra một bản xem tốt cả trên màn hình và khi được in ra. Nên sử dụng các phông chữ chuẩn như Verdana, Arial, Tahoma, Calibri, và Helvetica.

Sử dụng đủ khoảng trắng sao cho tài liệu không có vẻ quá dầy đặc gây mất hứng người đọc. Cùng lúc đó cũng đừng tiêu phí nhiều không gian đến mức mất tới 8 trang để in 200 từ. Tất nhiên, định dạng văn bản rất quan trọng. Theo kinh nghiệm của tôi thì 99.9% nhà tuyển dụng sẽ yêu cầu lý lịch của bạn ở định dạng Microsoft Word. Nếu lý lịch của bạn có định dạng khác thì hãy chắc chắn rằng có thể cung cấp một tài liệu ở dạng .doc chuẩn.

Hãy luôn ghi nhớ rằng sơ yếu lý lịch là công cụ đầu tiên để giới thiệu bản thân bạn. Nếu nhà tuyển dụng không thể đọc được những thông tin trong nó họ sẽ bỏ qua bạn và nhanh chóng đọc sang lý lịch tiếp theo.


7. Thận trọng với độ dài


Sau khi đã định dạng xong hồ sơ, hãy chú ý độ dài chỉ nên từ 2 đến 4 trang trừ những trường hợp vô cùng đặc biệt. Những người có nhiều khoảng thời gian làm những công việc ngắn hạn thì có thể có bản lý lịch dài hơn và những người mới đi xin việc sẽ có thể có những bản lý lịch ngắn gọn hơn.

Nói chung, độ dài có liên quan đến việc làm nổi bật các kỹ năng công nghệ của bạn hơn là một vị trí trong định dạng sơ yếu lý lịch một trang thông thường. Độ dài hai trang là hợp lý đối với bất kỳ người phát triển trung bình hay cao cấp nào. Nhưng sau khoảng bốn trang, đôi mắt người đọc bắt đầu nhòa dần. Những kinh nghiệm bạn có hơn bảy hay tám năm trước thực sự không liên quan, nhưng nhà tuyển dụng lại muốn nhìn thấy những kinh nghiệm và mức độ của những dự án bạn tham gia.


8. Hồ sơ đúng theo trình tự


Việc lập trình không giống như đa số những lĩnh vực khác khi đề cập đến trình tự công việc. Nhiều lập trình viên là những người đấu thầu, dẫn tới một chuỗi các trình tự công việc trông như một con tàu. Thêm vào đó cuộc tấn công dot-com đã không ở phía sau chúng ta quá xa, CNTT luôn luôn là một thị trường với nhiều sự phá sản, liên doanh, và những sự thu nhận..

Vấn đề là không nhà tuyển dụng nào muốn thấy một danh sách các công việc ngắn hạn. Nếu lý lịch của bạn có một chuỗi tên các công việc như vậy, với chức danh mà càng trở nên lớn hơn khiến cho bạn trở thành người không trung thành trong công việc. Mặt khác, nếu công việc dường như cơ bản giống nhau. Điều này làm cho nhà tuyển dụng có khái niệm rằng bạn có khả năng không trúng tuyển. Nếu bạn có lí do hợp pháp cho những công việc ngắn hạn, hãy chắc chắn những lý do này hợp lý.


9. Không đặt nhà tuyển dụng trước nguy hiểm


Không nhà tuyển dụng nào muốn bị buộc tội là thành kiến hay phân biệt đối xử. Đây không chỉ là vấn đề đạo lý, mà còn là vấn đề luật pháp. Vì thế các nhà tuyển dụng đang cố gắng tuyển dụng công bằng với danh sách các câu hỏi không thể hỏi các ứng cử viên. Bạn hãy loại bỏ những thông tin thừa trên lý lịch. Nhà tuyển dụng không cần biết tình trạng hôn nhân, dân tộc, tuổi, tôn giáo... Nếu bạn bao gồm những chi tiết không thích hợp này trên bản lý lịch thì nhà tuyển dụng sẽ cảm thấy sợ hãi và khó hiểu. Hãy để những chi tiết này ở ngoài.


10. "Thực sự đam mê"


Ở trường trung học, có thể bạn rất ghét khi bị gọi là “kẻ lập dị”. Nhưng hôm nay, bạn đang cố gắng tìm một công việc là một lập trình viên. "Đam mê" là tiêu chuẩn vàng của các nhà tuyển dụng. Hãy chứng tỏ rằng bạn khôn khéo, yêu thích lập trình và không ngừng học hỏi và khám phá những điều mới. Hãy nói về những sở thích liên quan, thích đóng góp để mở nguồn những dự án hay tình nguyện dạy lập trình cho trẻ con địa phương. Hãy cho họ biết bạn thực sự đam mê lập trình hay máy tính.

Đây thực sự sẽ là phép so sánh cho nhà tuyển dụng. Trong khi hai ứng cử viên có thể cân bằng trong hôm nay thì ứng cử viên với đam mê mạnh mẽ sẽ tiến xa hơn trong ngày mai hơn là ứng cử viên mà coi đây đơn giản chỉ là “công việc".